Trình bày tình hình kinh tế Anh cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX.
Trả lời:
Đầu những năm 1970, nền công nghiệp của Anh vẫn dẫn đầu thế giới. Sản lượng than của Anh gấp ba lần Hoa Kỳ và Đức; Sản lượng gang gấp 4 lần Mỹ và gần 5 lần Đức. Về mặt xuất khẩu kim loại, sản xuất của ba quốc gia: Pháp, Đức và Hoa Kỳ cộng lại không bằng Anh.
Từ cuối những năm 1970, Anh mất dần vị thế độc quyền công nghiệp nên vai trò thao túng thị trường thế giới của nước này giảm dần. Mỹ và Đức là những nước tư bản phát triển sau, nhưng đã bị Anh vượt lên.
Nguyên nhân chính dẫn đến sự sa sút của công nghiệp Anh so với Đức và Mỹ là ở Anh, máy móc xuất hiện sớm hơn các nước khác hàng chục năm, nhiều thiết bị cũ được tích lũy, hiện đại hóa tốn kém. Địa vị này gắn liền với sự tồn tại của một đế quốc thực dân rộng lớn. Một lượng lớn tư bản được đầu tư vào các thuộc địa, bởi vì ở đây thu được nhiều lợi nhuận hơn đầu tư vào chính quốc. Vào thời điểm đó, cướp bóc các thuộc địa có lợi hơn nhiều so với việc đầu tư vào khôi phục công nghiệp ở Anh.
Mặc dù quyền bá chủ công nghiệp của nó suy giảm, Anh vẫn chiếm ưu thế về tài chính, vốn xuất khẩu, thương mại, hải quân và sức mạnh thuộc địa.
Trong thời kỳ này, nhiều công ty độc quyền đã xuất hiện ở hầu hết các ngành: khai thác than, dệt may, thuốc lá, hóa chất, luyện kim, vận tải và đặc biệt là lĩnh vực ngân hàng.
Trước Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918), 12 ngân hàng lớn nhất nước Anh, nòng cốt là 5 ngân hàng ở Thành phố Luân Đôn, đã nắm giữ 70% vốn trong nước và chiếm lĩnh vị trí lãnh đạo kinh tế – tài chính. .
Nông nghiệp Anh cũng rơi vào khủng hoảng trầm trọng. Vào cuối thế kỷ XIX, giá lúa mì nhập khẩu từ châu Âu và Mỹ rất rẻ, trong khi giá lương thực sản xuất trong nước rất cao do chế độ thuế khóa. Như vậy, giai cấp tư sản Anh tham gia buôn bán lương thực thay vì đầu tư vào sản xuất nông nghiệp.
Vào những năm 1960, nước Anh tự cung tự cấp 3/4 lượng lúa mì mỗi năm; từ những năm 1970 trở đi, nó giảm xuống còn 1/3, nghĩa là nước Anh chỉ tự túc được lương thực trong 4 tháng.
Hãy nêu những nét chính về tình hình chính trị nước Anh cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX.
Trả lời:
Về hình thức, nước Anh là một vương quốc, nhưng trên thực tế, nó là một hệ thống nghị viện bao gồm thượng viện và hạ viện. Hai đảng (Đảng Tự do và Đảng Bảo thủ) thay nhau cầm quyền. Sự khác biệt giữa hai đảng không đáng kể, chủ yếu là về biện pháp thi hành và chính sách cụ thể, nhưng đều thống nhất bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản, đàn áp các phong trào quần chúng, đẩy mạnh chiếm đóng thuộc địa.
Đây cũng là thời kỳ giai cấp tư sản Anh tăng cường mở rộng hệ thống thuộc địa, nhất là ở châu Á và châu Phi. Trước Chiến tranh thế giới thứ nhất, các thuộc địa của Anh trải rộng trên hầu hết địa cầu, chiếm 1/4 diện tích lục địa (33 triệu km2) và 1/4 dân số thế giới (400 triệu người). Nhấn mạnh tầm quan trọng của việc khai thác thuộc địa của đế quốc rộng lớn mà “mặt trời không bao giờ lặn”, Lênin tuyên bố: Chủ nghĩa đế quốc Anh là chủ nghĩa đế quốc thực dân.
Nêu đặc điểm tình hình kinh tế Pháp cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX.
Trả lời:
Trước năm 1870, sản lượng công nghiệp của Pháp đứng thứ hai thế giới, sau Anh. Từ cuối những năm 1970 trở đi, tốc độ phát triển công nghiệp ở Pháp bắt đầu chậm lại vì nhiều nguyên nhân: bồi thường chiến tranh do mất mát), nghèo nguyên liệu, nhiên liệu, đặc biệt là than đá, và tầng lớp tư bản. Nhà đất chỉ quan tâm đến việc cho vay và đầu tư vào các nước chậm phát triển để thu lợi nhuận cao… Đến cuối thế kỷ XIX, sản xuất công nghiệp ở Pháp tụt xuống hàng thứ tư sau Đức, Mỹ, Anh và lạc hậu. công nghệ. So sánh rõ nét với nền công nghiệp của nhiều nước tư bản mới khác.
Tuy nhiên, nền công nghiệp Pháp cũng đạt được những tiến bộ đáng chú ý. Hệ thống đường sắt trải dài khắp đất nước, thúc đẩy sự phát triển của khai thác mỏ, luyện kim và thương mại. Cơ giới hóa sản xuất được cải thiện. Từ 1852 đến 1900, số xí nghiệp sử dụng máy móc tăng 9 lần, số máy hơi nước tăng 12 lần.
Ngoài ra, ở Pháp vẫn còn nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ. Năm 1896, trong tổng số 3,3 triệu công nhân, có hơn 1 triệu người làm việc trong các xí nghiệp có từ 10 đến 100 công nhân và hơn 1,3 triệu công nhân làm việc trong các xí nghiệp có từ 1 đến 10 công nhân.
Nông nghiệp vẫn đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế Pháp, vì phần lớn dân số kiếm sống từ nông nghiệp. Nông dân nhỏ chiếm phần lớn các hộ gia đình. Tình trạng ruộng đất manh mún, manh mún không cho phép sử dụng các máy móc, kỹ thuật nông nghiệp mới. Do cạnh tranh khốc liệt, ngành trồng nho, một nguồn lực kinh tế quan trọng, cũng suy giảm.
Trong thời kỳ này, nhiều tổ chức độc quyền cũng được hình thành ở Pháp, dần dần chi phối nền kinh tế nước này.
Điểm chính của tình trạng độc quyền ở Pháp là mức độ tập trung cao của các ngân hàng: 5 ngân hàng lớn ở Paris nắm giữ 2/3 vốn của các ngân hàng trong nước. Pháp là nước đứng thứ hai (sau Anh) về xuất khẩu vốn, nhưng khác Anh ở chỗ phần lớn vốn được cho các nước khác vay với lãi suất cao.
Năm 1908, 38 tỷ franc được xuất khẩu trong khi chỉ có 9,5 tỷ được đầu tư vào công nghiệp trong nước, phần còn lại là cho vay nặng lãi. Năm 1914, tư bản xuất khẩu đạt 50-60 tỷ franc, trong đó 13 tỷ cho Nga vay, chỉ 2-3 tỷ đưa cho các thuộc địa. Tổng lợi nhuận từ xuất khẩu tư bản năm 1913 lên tới 2,3 tỷ franc.
Như vậy, đặc điểm của chủ nghĩa đế quốc Pháp là chủ nghĩa đế quốc vì lợi ích.
Trình bày những nét chính về tình hình chính trị Pháp thời kỳ này.
Trả lời:
Tháng 9 năm 1870, Pháp thành lập nền Cộng hòa thứ ba (J). Tuy nhiên, phe Cộng hòa Pháp nhanh chóng chia thành hai nhóm: ôn hòa và cấp tiến, lần lượt cầm quyền ở Pháp.
Cộng hòa Pháp được đặc trưng bởi các cuộc khủng hoảng nội các thường xuyên. Trong vòng 40 năm (1875-1914), ở Pháp đã có 50 lần thay đổi chính quyền. Nhiều vụ bê bối chính trị nổ ra và hối lộ và tham nhũng tràn lan trong chính phủ.
Vào những thập niên cuối thế kỷ XIX, Pháp ráo riết phát triển cuộc chạy đua vũ trang để trả đũa Đức, tiến hành các cuộc chiến tranh xâm chiếm thuộc địa, chủ yếu ở châu Á và châu Phi.
Nửa cuối thế kỷ XIX, Pháp thôn tính Campuchia, Việt Nam và Lào. Cùng với các đế quốc khác, Pháp tham gia chia cắt Trung Quốc, lập tô giới đảo Hải Nam (1898), có “vùng ảnh hưởng” ở nhiều tỉnh thành ở Nam Trung Quốc. Những năm 90, Pháp chiếm nhiều nước châu Phi (Senegan, Tây Sudan, Guinea, một phần Congo, Dahomey, v.v.).
Trước Chiến tranh thế giới thứ nhất, thuộc địa của Pháp lớn thứ hai sau Anh, với diện tích gần 11 triệu km2 và 55,5 triệu dân.
Tại sao gọi đế quốc Anh là “chủ nghĩa đế quốc thực dân” và chủ nghĩa đế quốc Pháp là “chủ nghĩa đế quốc cho vay nặng lãi”?
Trả lời:
Chủ nghĩa đế quốc Anh được gọi là “chủ nghĩa đế quốc thực dân” vì: Cho đến cuối thế kỷ XIX, cả hai đảng Tự do và Bảo thủ cầm quyền ở Anh đều chủ động thực hiện chính sách mở rộng hệ thống thuộc địa. , đặc biệt là ở Châu Á và Châu Phi. Trước Chiến tranh thế giới thứ nhất, các thuộc địa của Anh đã trải dài khắp địa cầu, chiếm 1/4 diện tích lục địa (33 triệu km2) và 1/4 dân số thế giới (400 triệu người). Giai cấp tư sản Anh khoe rằng “mặt trời không bao giờ lặn trên đất Anh”, nước Anh trở thành cường quốc thuộc địa hạng nhất. Khác với Pháp và Đức, phần lớn tư bản xuất khẩu của Anh nằm bên ngoài châu Âu, chủ yếu đầu tư vào các thuộc địa. Các công ty thực dân Anh đã dùng nhiều thủ đoạn tinh vi và tàn ác để bóc lột nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc, thu về những khoản lợi nhuận khổng lồ.
– Chủ nghĩa đế quốc Pháp là “chủ nghĩa đế quốc cho vay nặng lãi” vì: Đặc điểm nổi bật của nền độc quyền Pháp là mức độ tập trung cao của các ngân hàng: 5 ngân hàng lớn ở Pa-ri nắm giữ 2/3 số vốn ngân hàng trong cả nước. Khác với Anh và Đức, phần lớn vốn của Pháp được đầu tư vào châu Âu, dưới hai hình thức chính: trái phiếu quốc gia (cho các nhà tư bản châu Âu vay) và trái phiếu thị trường (cho các tỉnh châu Âu vay). Pháp xuất khẩu rất ít vốn cho các thuộc địa (khoảng 10%). Năm 1913, tổng lợi nhuận trên tư bản xuất khẩu là 2,3 tỷ phrăng. Trong hệ thống kinh tế thế giới, Pháp là một trong những chủ nợ lớn nhất. Năm 1914, nước Pháp có 2 triệu trong tổng số 39 triệu dân sống nhờ cho vay nặng lãi.
Em có nhận xét gì về tình hình kinh tế của Anh và Pháp cuối thế kỉ 19 đầu thế kỉ 20?
Trả lời:
– Trước 1870 Anh là nước đứng đầu thế giới về sản xuất công nghiệp, nhưng sau 1870 Anh mất vị trí này và rơi xuống vị trí thứ 3 thế giới (sau Mĩ và Đức). Mặc dù mất quyền bá chủ công nghiệp, Anh vẫn là nước dẫn đầu về xuất khẩu tư bản, thương mại và thuộc địa. Nhiều công ty độc quyền về công nghiệp và tài chính ra đời, chi phối toàn bộ nền kinh tế.
– Trước năm 1870, công nghiệp Pháp đứng thứ hai thế giới (sau Anh), nhưng từ năm 1870 trở đi, Pháp phải nhường vị trí này cho Đức và tụt xuống thứ tư thế giới. Tuy nhiên, tư bản Pháp vẫn phát triển mạnh, nhất là trong các ngành khai khoáng, đường sắt, luyện kim, ô tô… Nhiều công ty độc quyền ra đời nhằm chi phối nền kinh tế Pháp, đặc biệt là lĩnh vực ngân hàng.
– Có thể thấy, hai nước đế quốc Anh, Pháp đã mất dần vị trí hàng đầu trong một số ngành, đầu tư cho sản xuất không nhiều bằng Mỹ, Đức và các nước này đang phải cạnh tranh gay gắt. Người anh cả. Pháp đã trở lại với các nước “đế quốc cũ”. Điều này dẫn đến nền kinh tế Anh. Pháp tuy vẫn đang phát triển mạnh nhưng vẫn tiềm ẩn nguy cơ tụt hậu so với các nước tư bản “mới” khác.
giaibaitap.me
Bài 35: Anh, Pháp, Đức, Mỹ và bành trướng thuộc địa appeared first on Cakhia TV
Trên đây là bài viết Bài 35: Các nước Anh, Pháp, Đức, Mĩ và sự bành trướng thuộc địa của Cà khịa TV web site tổng hợp link xem trực tiếp bóng đá hàng đầu Việt Nam hiện nay.