Suốt cuộc đời, Bác Hồ luôn hết lòng lo cho sự nghiệp cách mạng nước nhà, Bác không hề mong muốn trở thành nhà thơ, nhưng như Người đã từng viết:
“Tôi không quan tâm ngâm thơ”
Nhưng bạn sẽ làm gì khi bạn ngồi trong tù?”
Hoàn cảnh “rảnh rỗi sinh nông nỗi” khiến anh đến với thơ như một cái duyên. Trong những năm tháng bị giam cầm trong nhà ngục của Tưởng Giới Thạch, Bác Hồ đã có bài thơ rất hay: “Vọng nguyệt”.
“Tù trung bất hoa diệc vô hoa
Đối với bài kiểm tra trả lương thấp?
Nhân hóa hướng tiền của khán giả
Nguyệt tham gia cổ vũ khán giả”
Bài thơ được dịch là “Ngắm trăng”:
“Trong tù không rượu không hoa
Cảnh đẹp đêm nay khó bỏ qua
Người nhìn trăng soi qua cửa sổ
Trăng trông ra cửa nhìn thi nhân”
Tên bài thơ là “Vọng nguyệt” – “Ngắm trăng”. Người xưa ngắm trăng trên lầu trăng, vườn hoa với bạn bè, túi thơ, ly rượu… Còn bây giờ, Bác ngắm trăng trong một hoàn cảnh rất đặc biệt:
“Trong tù không rượu không hoa”
Bài thơ bộc lộ nhiều điều bất ngờ. Người ngắm trăng là một tù nhân không có tự do “trong tù”. Trong hoàn cảnh đó, con người thường phải chống chọi với đói khát, đau đớn và hận thù. Nhưng Hồ Chí Minh, với tình yêu thiên nhiên nồng nàn, đã hướng về ánh sáng dịu êm của vầng trăng. Không những thế, ngục tù đen tối ấy “không rượu không hoa”. Chữ “anh hùng” trong nguyên văn chữ Hán (có nghĩa là “cũng”) nhấn mạnh sự thiếu thốn, khó khăn trong điều kiện đi “ngắm trăng” của Bác Hồ.
Không lanh, không rượu, không hoa, nhưng “Đối thử lương, nại yếu ư?” – Làm sao ta có thể đối mặt với trăng sáng? Nguyên tác chữ Hán là một câu hỏi đầy hoang mang, đầy xao xuyến của tâm hồn thi nhân trước vẻ đẹp trong trẻo, tròn đầy của ánh trăng. Không có những điều kiện vật chất tối thiểu, không có tự do, nhưng ở Hồ Chí Minh có một “tinh thần vượt ngục” rất độc đáo, như Bác đã từng nói:
“Thân nằm trong ngục tối
Tinh thần ở ngoài kia”
Thân bị tù đày nhưng hồn Bác vẫn bay bổng cùng thiên nhiên. Điều này được lí giải bởi tình yêu thiên nhiên và cũng là tinh thần “thép” không khuất phục trước cái xấu, cái ác của Bác. Trăng trong, lòng người cũng trong nên giữa trăng và người có một sự hòa hợp tuyệt vời:
“Hướng Nhân và Khán Minh Nguyệt
Nguyệt tham gia cổ vũ khán giả”
Dịch thơ:
“Ai nhìn trăng soi qua cửa sổ
Trăng nhìn thơ nhìn cửa”
Trong nguyên tác chữ Hán, nhà thơ sử dụng phép đối lập giữa hai câu thơ “người” – “nguyệt”, “hướng” – “lòng”, “lưỡng tiền” – “hai bên”, “minh nguyệt” – “thi” đình. “. Điều này nó thể hiện sự đồng điệu, hòa hợp giữa con người và mặt trăng, nên con người và mặt trăng như hai tâm hồn song sinh. “Con người” không ngại cảnh tù tội mà “hướng đồng tiền xem trăng”. “khẩn” có nghĩa là ngắm nhìn, thưởng thức. Đáp lại tấm lòng của thi sĩ-người tù, vầng trăng “khuyến khích người xem thi nhân cũng vậy”. Trong tiếng Hán, “tòng” có nghĩa là đi theo; trăng theo song cửa mà vào “khán giả” của nhà thơ trong ngục. Đó là một cảm nhận rất độc đáo. Vầng trăng là biểu tượng cho vẻ đẹp vĩnh hằng của vũ trụ, là khát vọng muôn thuở của thi nhân. Còn bây giờ, trăng chui qua khe hẹp, bước vào ngõ ẩm và ngục tù hôi hám để cảm phục tấm gương hay tâm hồn nhà thơ Điều đó đã khẳng định vẻ đẹp trong con người Hồ Chí Minh.
“Vọng Nguyệt” ra đời năm 1942-1943 khi Bác Hồ bị giam trong nhà tù của Tưởng Giới Thạch. Đoạn thơ thể hiện phong thái ung dung, bất chấp gian nguy, gian khổ của Bác. Trong hoàn cảnh nào ông cũng hướng về thiên nhiên, thể hiện tình yêu thiên nhiên rộng mở. Đó là một trong những biểu hiện quan trọng của tinh thần thép Hồ Chí Minh.
“Vọng nguyệt” không chỉ là một bài thơ tả cảnh đơn thuần. Bài thơ cũng là bức chân dung tự họa của Hồ Chí Minh. Và như vậy, bài thơ quả là một bài thơ xứng đáng trong kho tàng thi ca Việt Nam.
Bài viết Phân tích bài thơ Ngắm trăng của Hồ Chí Minh appeared first on Cakhia TV
Trên đây là bài viết Phân tích bài thơ Vọng nguyệt (Ngắm trăng) của Hồ Chí Minh của Cà khịa TV web site tổng hợp link xem trực tiếp bóng đá hàng đầu Việt Nam hiện nay.