Câu hỏi 1:
“Khủng khiếp” là từ tượng hình dùng để chỉ sự vật ở thế không ổn định, bấp bênh, chao đảo như rơi, đổ, chông chênh. Từ đó, trong bài thơ này, tác giả đã dùng từ “phi thường” với nghĩa là khác thường, vượt ra ngoài tầm thường.
Ngoài nhan đề, từ “thừa” được lặp lại bốn lần ở cuối các câu 4, 8, 12 và câu cuối. Và mỗi lần nhắc lại, từ “thừa thãi” lại mang một ý nghĩa khác.
– Chữ “vượt” thứ nhất nói đến tài thao lược, quân sự của Nguyễn Công Trứ.
– Từ “thừa thãi” thứ hai nói lên sự vô liêm sỉ của tác giả ngay sau khi về hưu, làm quan bình dân.
– Từ thứ ba “ngỡ” khẳng định trò chơi ngu nhất của Nguyễn Công Trứ, ông đưa các cô gái trẻ vào chùa, hát ả đào,… và tán thưởng họ.
– Từ cuối “ngỡ ngàng” thể hiện sự vượt trội của tác giả so với mọi người trong buổi chiều, bởi ông dám coi thường danh lợi, khinh bỉ khen chê, không bằng lòng với thú vui và không chút hoang mang, bận tâm. ràng buộc bản sắc.
=> Trong bài thơ, Nguyễn Công Trứ đã dùng từ “phi thường” với nghĩa rộng hơn, mới lạ và rất hay. Từ đó, nó trở thành biểu tượng của một lối sống, một thái độ sống vượt ra khỏi thế tục, lệch chuẩn mực, vượt ra khỏi những khuôn mẫu, chuẩn mực của cuộc sống hàng ngày trong xã hội phong kiến để hướng tới một cuộc sống tự do, phóng khoáng. Mang đậm màu sắc cá nhân, thách thức xung quanh dựa trên kiến thức tốt về tài năng và cá tính của mỗi cá nhân.
Câu 2:
Nguyễn Công Trứ biết làm quan là hạn chế, là mất tự do. Ông coi chốn quan trường như cái lồng giam người “Ông Hi Văn đã vào lồng rồi”. Tuy nhiên, ông vẫn ra làm quan vì cho rằng đó là nơi thể hiện tài năng và công sức của mình đối với xã hội, triều đình và tôn giáo của vua tôi. Ông biết tài năng của mình đến đâu, ở đâu và cần phải làm gì để ích nước lợi dân. Nguyễn Công Trứ vẫn làm vì ông coi công việc này là điều kiện, là phương tiện giúp ông thực hiện hoài bão, lí tưởng xã hội vì nước, vì dân. Đồng thời, đây cũng là cơ hội để anh thể hiện tài năng và nhân cách của mình.
câu 3:
Trong bài thơ, Nguyễn Công Trứ tự kể về mình, thể hiện và tự ca ngợi mình. Ông biết tài năng của mình đến đâu, ở đâu và cần phải làm gì để ích nước lợi dân. Giọng điệu trong bài khẳng định, đầy cá tính, cho thấy anh ý thức được tài năng và phương châm sống của mình. Tác giả đã dùng hai danh xưng riêng để chỉ mình: ai, tay (ông Hi Văn, tay ngây ngất). Nói theo ngôn ngữ tự xưng của thời phong kiến (cả trong thơ ca và đời thường) như cô, quả, dại, v.v… rõ ràng đây là cách nói một người tự phụ, kiêu ngạo, nổi tiếng tài ba. tính cách của anh ấy. Sự kiêu căng ngạo mạn này đã cho Nguyễn Công Trứ thấy mình trang trọng, xuất thần.
Nguyễn Công Trứ tự hào là người có cuộc sống năng động trong xã hội. Anh cũng tự hào vì đã dám sống cho mình, bỏ qua những hạn chế của lễ giáo và tôn giáo.
Ba dòng cuối bài thơ thể hiện thái độ tự khen của nhà thơ, tự cho mình ngang hàng với các vị tướng trong truyền thuyết. Từ đó, thể hiện cái tôi cao ngạo, ngất ngưởng. Thái độ ấy được nhà thơ đẩy ra so với những người đang sống và đang làm nhiệm vụ trong triều đình. Như vậy, sự khẳng định cá tính độc đáo, khác biệt của nhà thơ gìn giữ một lối sống phóng khoáng, vượt qua những khuôn mẫu cứng nhắc xưa cũ.
Câu 4:
Ca dao phát triển mạnh từ đầu thế kỷ XIX và đã phát triển nhanh chóng, chiếm một vị trí độc tôn trong một thời gian dài, trở thành một trào lưu văn học đương thời.
So với thể thơ Đường luật bị giới hạn, bó hẹp, nhiều quy định về niêm, luật thì thể thơ nói và nói đã phóng khoáng, tự do hơn rất nhiều. Hát nói có quy định về số câu, về cách chia khổ, nhưng người viết có thể phá lệ với mong muốn tạo ra một tác phẩm tự do về số câu, số chữ, vần, nhịp điệu. Sự khoáng đạt của thể thơ đặc biệt phù hợp với những nhà thơ có phong cách mới, cách nghĩ mới về quan niệm sống, khát khao khẳng định mình, sống theo mình, bỏ qua những gò bó của lễ giáo, xã hội.
LUYỆN TẬP
Sự khác biệt về vấn đề giữa bài “Bài ca ngất trời” của Nguyễn Công Trứ và “Bài ca phong cảnh Hương Sơn” của Chu Mạnh Trinh.
– Ngôn ngữ trong “Khúc hát ngất trời” rất phóng khoáng, tự do, kiêu sa, đậm cá tính của tác giả, nhiều câu. Như vậy sẽ dễ theo dõi nội dung và văn phong Nguyễn Công Trứ hơn.
– Ngôn ngữ trong bài “Bài ca phong cảnh Hương Sơn” nhẹ nhàng, chứa nhiều từ gợi tả cảnh sắc thiên nhiên, đồng thời có những từ mang dấu tích Phật giáo. Từ đó thể hiện rõ niềm say mê của tác giả đối với phong cảnh thiên nhiên đất nước cũng như Phật giáo.
giaibaitap.me
Bài viết Sáng tác Bài ca ngất trời – Nguyễn Công Trứ appeared first on Cakhia TV
Trên đây là bài viết Soạn bài Bài ca ngất ngưởng – Nguyễn Công Trứ của Cà khịa TV web site tổng hợp link xem trực tiếp bóng đá hàng đầu Việt Nam hiện nay.