Đoạn trích Nỗi oan Thị Kính thể hiện những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ, những bi kịch bất công, bế tắc và đối kháng giai cấp qua những mâu thuẫn gia đình và hôn nhân trong xã hội phong kiến.
I. GIỚI THIỆU VÀ TÌNH CẢM TÁC GIẢ
1. Thể loại
Chèo là loại hình ca kịch, dân vũ, kể chuyện, diễn xướng dưới hình thức sân khấu và trước đây thường diễn ở sân đình nên còn được gọi là chèo sân đình. Chèo nổi lên và trở nên phổ biến rộng rãi ở miền Bắc.
Văn bản Quan Âm Thị Kính là lời ca (kịch bản) của một vở chèo – một loại hình nghệ thuật dân gian kết hợp nhiều hình thức như ca, múa, diễn kịch, kể chuyện, v.v. gọi là thảm chèo).
Tuy chỉ là một kịch bản sân khấu, nhưng Quan Âm Thị Kính (và đoạn vở Kẻ Bất Chính) cũng thể hiện một số giá trị nghệ thuật, giúp chúng ta phần nào hiểu được những đặc điểm cơ bản của nghệ thuật Chèo, nhất là về nội dung tư tưởng: những vấn đề đặt ra bởi những trò chèo, những mâu thuẫn, xung đột trong xã hội cũ, nỗi khổ của người phụ nữ, v.v.
Bà suy tôn thuộc loại ác nữ, đại diện cho giai cấp thống trị, thuộc tầng lớp phong kiến.
– Thị Kính thuộc tuýp nữ chính (nữ chính xấu và nữ chính là 2 nhân vật rất điển hình thường xuất hiện trong chèo). Thị Kính đại diện cho những người dân thường, đặc biệt là người phụ nữ chịu nhiều thua thiệt trong xã hội cũ.
Nổi bật trong đoạn văn này là hình ảnh Thị Kính, người phụ nữ hết lòng yêu chồng. Khi chồng đã ngủ, Thị Kính dọn dẹp đi văng rồi lật tẩy chồng. Vì thương chồng nên khi Thiện Sĩ đã ngủ, Thị Kính nhìn kỹ thì phát hiện một bộ râu quai nón đã mọc. Với một suy nghĩ hết sức bình thường và đơn giản “Đàn ông đẹp mặt trước, đẹp mặt ta sau” (dân gian ta cũng có câu “Tao xấu hổ với mày” cũng có nghĩa như vậy), Thị Kính đã cố gắng chờ đợi. cằm của cô ấy với một con dao khâu. Suy nghĩ và hành động của Thị Kính rất tự nhiên, thể hiện tình cảm rất thiết tha, chân thành của người phụ nữ yêu chồng.
– Về hành động: Cô giáo đẩy đầu Thị Kính, bắt Thị Kính phải sấp mặt (kiểu làm nhục). Bà hết lòng vì mình, không cho Thị Kính xa cách, kiếm cớ cho mình, đẩy Thị Kính khuỵu xuống, quyết trả Thị Kính về với gia đình.
– Về ngôn ngữ: Lời chầu chực cay đắng của nàng, lời trách móc ác độc của Thị Kính. Quan trọng nhất, lời Sùng Bà trách Thị Kính không phải là lời mẹ chồng trách con, cũng không phải lời mẹ chồng trách con dâu.
Lời nói và hành động của Sùng Bà chứng tỏ bà ta là một người độc ác và tàn nhẫn, không những thế còn hợm hĩnh, coi mình là thượng đẳng nên dẫn đến khinh thường người khác, nhất là người lao động. Điều này cho thấy Sùng Bà nổi giận mắng mỏ Thị Kính thậm tệ không phải vì cho rằng Thị Kính có ý hại con gái mình mà vì sự khác biệt về đẳng cấp xã hội giữa hai gia đình. Thị Kính là con nhà nghèo ai dám vào, hơn nữa còn làm dâu, trở thành một phần của gia đình bà.
Xung đột kịch tính được đẩy lên cao trào: Thị Kính không chỉ bị đẩy đến chỗ phá vỡ hạnh phúc hôn nhân, bị mắng nhiếc, hành hạ mà còn phải chứng kiến cảnh bố chồng coi thường vợ già yếu. , khổ sở.
Hình ảnh hai cha con ôm nhau khóc là hình ảnh của những người chịu bất công, đau khổ nhưng hoàn toàn bất lực. Đây là bi kịch điển hình của những người dân nghèo, đặc biệt là những người phụ nữ nông dân trong xã hội cũ.
Thân ơi! Trong một thời gian dài, bàn ủi giữ lưới hoàn hảo
Chợt ai làm chiếc gối cô đơn
Các cặp từ đối nhau bấy lâu – bỗng; nắm đấm sắt – chiếc gối cô đơn,… với những sắc thái ý nghĩa đối lập đã diễn tả hai trạng thái trái ngược nhau mà chuyển hóa rất đột ngột. Từ giai đoạn “sắt cầm thuần thiện” (nghĩa là tình yêu nam nữ hòa thuận, đầm ấm) đến giai đoạn “vợ chồng ly tán” chỉ là một khoảnh khắc. Một bên là hạnh phúc, một bên là chia ly. Bị đẩy xa khỏi thế giới đã biết, người phụ nữ bỗng trở nên bơ vơ giữa những bấp bênh của cuộc đời.
III. KHẢ NĂNG THỰC HÀNH
Thiện Sĩ ngồi đọc sách rồi lăn ra ngủ. Thị Kính ngồi khâu bên cạnh, thấy bộ râu mọc dài, nghĩ chẳng lành, định lấy dao khâu cắt đi. Thình lình, Thiện Sĩ tỉnh dậy và hét lên. Hết lòng vì anh, Sùng Bà vốn không ưa Thị Kính, thấy vậy liền tố cáo Thị Kính có ý giết chồng. Rồi mặc cho Thị Kính ăn xin tự do, Sùng Ông, Sùng Bà tiễn Thị Kính về nhà cha mẹ đẻ. Thương con, ông gọi Mang Ông (cha của Thị Kính) đến. Sau khi tủi nhục khiến cả hai cùng khốn khổ, cặp đôi bỏ nhà đi mặc cho hai cha con ôm nhau khóc rồi dắt nhau về nhà.
Chèo được viết để diễn. Với một vở chèo xưa như Quan Âm Thị Kính, các nhân vật đối đáp bằng những giọng điệu phức tạp (hát, đếm, hát, nói, v.v.) thì khó có thể lồng tiếng cho đúng nhân vật trên. cảnh. Để khắc phục điều này, người đọc phải dựa vào diễn biến sự việc để hình dung tâm trạng nhân vật, từ đó xác lập giọng điệu tương đối phù hợp (tất nhiên là chỉ với yêu cầu của người đọc).
Từ nội dung của vở chèo, thành ngữ “Oan Thị Kính” được dùng để nói về những nỗi oan ức không sao giải thích được.
Bài Soạn văn Quan Âm Thị Kính (Lớp 7) appeared first on Cakhia TV
Trên đây là bài viết Soạn bài Quan Âm Thị Kính ( lớp 7) của Cà khịa TV web site tổng hợp link xem trực tiếp bóng đá hàng đầu Việt Nam hiện nay.