I. THỂ LOẠI
Ngoài những vần tương tự như những câu tục ngữ về thiên nhiên và lao động sản xuất, những câu tục ngữ về con người và xã hội còn nổi bật ở những khía cạnh khác:
– Sử dụng hình ảnh so sánh, hoán dụ, phép đối,… có hiệu quả.
– Đưa ra những câu tục ngữ có nghĩa trái ngược nhau nhưng không loại trừ nhau mà còn bổ sung cho nhau. Chẳng hạn hai câu 5, 6:
Anh ấy không cần giáo viên của mình
Học từ một giáo viên không dạy bạn.
Đừng dựa vào nghĩa của câu sau để phủ nhận vai trò của người thầy, cũng như đánh giá quá cao vai trò của bạn. Trên thực tế, đây chỉ là những biểu hiện trực quan. Nói đến “thầy” là nói đến trường lớp, tri thức sách vở, nói đến “bạn” là nói đến hiện thực muôn màu muôn vẻ của cuộc sống. Có câu “Mọi lý thuyết chỉ là màu xám nhưng cây đời thì mãi xanh tươi”, tri thức trong cuộc sống rất quan trọng nhưng không ai có thể phủ nhận vai trò của trường lớp, tri thức sách vở trong việc mở mang vốn sống. tri thức, phát huy phẩm chất, nhân cách con người. Tri thức sách vở và tri thức cuộc sống đều cần thiết, không loại trừ nhau mà ngược lại, chúng phải bổ sung cho nhau để con người hoàn thiện.
II. KIẾN THỨC CƠ BẢN
3. * Câu tục ngữ thể hiện mối quan hệ thầy trò, nhận xét, đánh giá vai trò của người thầy, xác định sự tiếp thu và học hỏi bạn bè được nhân dân đúc kết:
– Nó không cần thầy nó.
– Học từ thầy không tốt cho việc học.
Thoạt đọc có vẻ như hai câu tục ngữ đối lập nhau, nhưng thực ra chúng bổ sung cho nhau rất nhiều. Cả câu đối và câu đối đều đề cao việc học, chỉ có học, biết tìm thầy, con người mới có thể thành đạt, mới có thể đóng góp cho xã hội và sống có ý nghĩa.
* Biểu đạt bằng so sánh:
– Một mặt người bằng mười mặt người.
– Học từ thầy không tốt cho việc học.
– Người bị thương như chính mình.
Phương pháp so sánh được sử dụng rất đa dạng và linh hoạt. Ở câu thứ nhất, so sánh “bằng”, hai tiếng “ư” (người – mười) gieo vần và đối lập nhau qua từ so sánh. Ở câu thứ hai cũng thể hiện quan hệ đó, người ta so sánh “tay” cùng vần với âm “ay” trong câu so sánh (thầy giáo). Câu thứ ba sử dụng so sánh “như”. Những cách dùng này dễ thuộc, dễ nhớ, dễ truyền đạt ý.
* Phương thức biểu đạt ẩn dụ:
– kẻ ăn quả nhớ kẻ trồng cây.
– Cây làm chẳng nên non, ba cây làm núi cao.
Hình ảnh ẩn dụ ở câu đầu: từ quả – cây nghĩa đen là quả và người có công giúp đỡ, sinh thành… Cũng vậy, cây và tuổi trẻ khác nhau ở nghĩa cá thể và nghĩa lớn, nghĩa khó… chúng là ẩn dụ. mở rộng nghĩa và diễn đạt linh hoạt các ý cần biểu đạt.
* Dùng từ, đặt câu nhiều nghĩa:
– Răng, tóc (không chỉ hàm răng, mái tóc cụ thể mà còn là yếu tố hình tướng nói chung – đây là những yếu tố thể hiện hình dáng, tính cách của một con người).
– Đói rách (không chỉ đói rách mà còn khó khăn, thiếu thốn nói chung); Sạch sẽ, thơm tho, chỉ cần giữ tư cách tốt và nhân phẩm.
– Ăn, nói, đóng gói, mở gói… ngoài việc học cách giao tiếp và ứng xử nói chung theo đúng nghĩa đen.
– Quả, người gieo, cây, non… cũng là những từ nhiều nghĩa như câu 3 đã nói.
Cách dùng từ này tạo ra nhiều lớp nghĩa phong phú, phù hợp với nhiều cách diễn đạt và tình huống giao tiếp.
III. KHẢ NĂNG THỰC HÀNH
Cách đọc tục ngữ cơ bản giống nhau, đều phải đọc đúng vần, đúng nhịp. Ngay cả với những câu tục ngữ dưới hình thức ca dao (“Cây làm nên con…”), tính chất học tập trải nghiệm vẫn là chủ yếu, đọc rõ ràng, rành mạch, không quá coi trọng cái yếu. yếu tố thú vị. .
Lời khuyên: Tham khảo các câu tục ngữ sau:
– Từ đồng nghĩa:
+ Người sống lâu hơn một đống vàng.
+ Lấy của cải che thân, không ai lấy thân che của cải cho mình.
+ Uống nước nhớ nguồn.
Đừng quên những cây ăn quả.
+ Nhiễu bao giá gương.
Mọi người ở một nơi để giao dịch với nhau.
– Đối diện:
+ Của cải trọng hơn người.
+ Ăn một bát cháo.
+ Chim đứt dây, cá quên cầm.
Bài Tục ngữ về con người và xã hội (lớp 7) lần đầu tiên xuất hiện trên Cakhia TV
Trên đây là bài viết Tục ngữ về Con người và Xã hội ( Lớp 7) của Cà khịa TV web site tổng hợp link xem trực tiếp bóng đá hàng đầu Việt Nam hiện nay.